Danh sách Tổng Bí thư Tổng_Bí_thư_Đảng_Cộng_sản_Liên_Xô

Tên gọi
(sinh–mất)
Chân dungNhiệm kỳChú thích
Bí thư chuyên trách Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (1917–1918)
Elena Stasova
(1873–1966)[18]
Tháng 4, 1917–1918Trong vai trò là Bí thư chuyên trách, Stasova và nhóm bốn nữ cán bộ của bà chịu trách nhiệm duy trì quan hệ thư từ với các chi bộ đảng cấp tỉnh, phân công công việc, lưu giữ hồ sơ tài chính, phân phối quỹ Đảng,[19] xây dựng cơ chế chính sách đảng và bổ nhiệm nhân sự mới.[20]
Chủ tịch Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga (1918–1919)
Yakov Sverdlov
(1885–1919)[21]
1918 – 16 tháng 3 năm 1919Sverdlov còn ở lại nhiệm sở cho đến khi qua đời vào ngày 16 tháng 3 năm 1919. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông chủ yếu chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn chứ không phải là vấn đề chính trị.[22]
Elena Stasova
(1873–1966)[18]
Tháng 3, 1919 – Tháng 12, 1919Khi chức vụ của bà bị giải thể, Stasova không được coi là một đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng đối với vị trí Bí thư trách nhiệm, chức vụ thừa kế là Chủ tịch Ban Bí thư.[23]
Bí thư trách nhiệm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga (1919–1922)
Nikolay Krestinsky
(1883–1938)[24]
Tháng 12, 1919 – Tháng 3, 1921Chức vụ Bí thư trách nhiệm có chức năng như một Bí thư, một vị trí khá tầm thường được giao dù rằng Krestinsky cũng là một thành viên Bộ Chính trị, Cục Tổ chứcBan Bí thư của Đảng. Tuy nhiên, Krestinsky chẳng bao giờ cố gắng để tạo ra một cơ sở quyền lực độc lập như Joseph Stalin sau này đã làm trong thời gian ông làm Tổng Bí thư.[2]
Vyacheslav Molotov
(1890–1986)[25]
Tháng 3, 1921 – Tháng 4, 1922Được bầu làm Bí thư trách nhiệm tại Đại hội Đảng lần thứ 10 được tổ chức vào tháng 3 năm 1921. Đại hội đã quyết định rằng chức danh Bí thư trách nhiệm cần phải có một sự hiện diện tại phiên họp toàn thể Bộ Chính trị. Kết quả là Molotov đã trở thành một thành viên ứng cử viên của Bộ Chính trị.[26]
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Toàn Liên bang (Bolshevik) (1922–1953)
Joseph Stalin
(1878–1953)[27]
3 tháng 4 năm 1922 – 5 tháng 3 năm 1953Stalin đã dùng chức danh Tổng Bí thư để tạo ra một cơ sở quyền lực độc lập cho riêng mình. Tại Đại hội Đảng lần thứ 17 vào năm 1934, Stalin đã không được chính thức tái đắc cử làm Tổng Bí thư[28] và chức vụ này hiếm khi được đề cập sau đó [29] nhưng Stalin giữ lại tất cả các vị trí khác và tất cả quyền lực của mình. Chức vụ chính thức được bãi bỏ tại Đại hội Đảng lần thứ 19 vào ngày 16 tháng 10 năm 1952, thế nhưng Stalin vẫn còn là bí thư và duy trì quyền lực cuối cùng.[7]
Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1953–1966)
Nikita Khrushchev
(1894–1971)[30]
14 tháng 9 năm 1953 – 14 tháng 10 năm 1964Khrushchev tái lập chức vụ này vào ngày 14 tháng 9 năm 1953 dưới tên Bí thư thứ nhất. Năm 1957 ông đã gần như bị cách chức bởi Tập đoàn chống Đảng. Georgy Malenkov, một thành viên hàng đầu của Tập đoàn chống Đảng, lo lắng rằng quyền hạn của Bí thư thứ nhất đã hầu như không giới hạn.[31] Khrushchev bị bãi chức lãnh đạo vào ngày 14 tháng 10 năm 1964 và thay thế bởi Leonid Brezhnev.[10]
Leonid Brezhnev
(1906–1982)[32]
90px|alt=A man with wavy dark graying hair in a suit, with three Hero of the Soviet Union stars pinned on it14 tháng 10 năm 1964 – 8 tháng 4 năm 1966Chức danh Bí thư thứ nhất được đổi tên thành Tổng Bí thư tại Đại hội Đảng lần thứ 23.[11]
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1966–1991)
Leonid Brezhnev
(1906–1982)[32]
90px|alt=A man with wavy dark graying hair in a suit, with three Hero of the Soviet Union stars pinned on it8 tháng 4 năm 1966 – 10 tháng 11 năm 1982Lúc đầu không có nhà lãnh đạo rõ ràng của tập thể lãnh đạo với Brezhnev và Thủ tướng Alexei Kosygin cầm quyền ngang nhau.[33] Tuy nhiên, đến những năm 1970 ảnh hưởng của Brezhnev đã vượt qua Kosygin and và ông đã có thể giữ lại sự ủng hộ này bằng cách tránh bất kỳ cuộc cải cách triệt để nào. Quyền hạn và chức năng của Tổng Bí thư bị hạn chế bởi sự lãnh đạo tập thể trong nhiệm kỳ của Brezhnev.[34]
Yuri Andropov
(1914–1984)[35]
12 tháng 11 năm 1982 – 9 tháng 2 năm 1984Ông được coi là ứng cử viên sáng giá nhất cho chức Tổng Bí thư sau khi biết ông đã từng là Chủ tịch Ủy ban phụ trách sắp xếp, quản lý và chuẩn bị tang lễ của Brezhnev.[36] Andropov cũng phải thông qua nghị quyết để cai trị đất nước theo cùng một cách mà Brezhnev đã làm trước khi ông mất.[12]
Konstantin Chernenko
(1911–1985)[32]
13 tháng 2 năm 1984 – 10 tháng 3 năm 1985Chernenko đã 72 tuổi khi được bầu vào chức vụ Tổng Bí thư và sức khỏe nhanh chóng suy yếu.[37] Chernenko cũng buộc phải qua nghị quyết như người tiền nhiệm Yuri Andropov đã làm để cai trị đất nước theo cùng một cách như của Brezhnev.[12]
Mikhail Gorbachev
(1931-)[38]
11 tháng 3 năm 1985 – 24 tháng 8 năm 1991Đại hội đại biểu Nhân dân năm 1990 đã bầu chọn để loại bỏ Điều 6 từ bản Hiến pháp Liên Xô năm 1977. Điều này có nghĩa rằng Đảng Cộng sản đã đánh mất vị thế là "lực lượng nòng cốt đi đầu của xã hội Liên Xô" và quyền hạn của Tổng Bí thư đã bị cắt giảm đáng kể. Trong suốt phần nhiệm kỳ còn lại của ông Gorbachev đã cai trị trên cương vị Tổng thống Liên Xô.[13] Ông từ chức khỏi đảng vào ngày 24 tháng 8 năm 1991 in the do hậu quả của cuộc đảo chính tháng 8.[14]
Vladimir Ivashko
(1932–1994)[39]
24 tháng 8 năm 1991 – 29 tháng 8 năm 1991Ông được bầu làm Phó Tổng Bí thư, một tên gọi khác cho cấp phó lãnh đạo, tại Đại hội Đảng lần thứ 28. Ivashko trở thành quyền Tổng Bí thư sau khi Gorbachev từ chức, nhưng sau đó Đảng đã bất lực về mặt chính trị và vào ngày 29 tháng 8 năm 1991 đã bị cấm hoạt động.[15]

Liên quan